Scholar Hub/Chủ đề/#chấn thương tim/
Chấn thương tim (hay còn gọi là chấn thương nhĩ) là một tình trạng khi tim bị tổn thương do các nguyên nhân khác nhau. Chấn thương tim có thể bao gồm việc mất m...
Chấn thương tim (hay còn gọi là chấn thương nhĩ) là một tình trạng khi tim bị tổn thương do các nguyên nhân khác nhau. Chấn thương tim có thể bao gồm việc mất máu nghiêm trọng hay tổn thương cơ và mạch máu của tim. Các nguyên nhân gây ra chấn thương tim có thể là tai nạn giao thông, tai nạn lao động, nhảy múa từ độ cao, cấp cứu hồi sức tim mạch hoặc các bệnh lý tim mạch. Chấn thương tim có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như tổn thương van tim, tổn thương nhĩ vành, xâm thực tim hoặc thiếu máu cục bộ trong điểm tổn thương. Việc chẩn đoán và điều trị chấn thương tim thường được tiến hành bởi các chuyên gia tim mạch và phẫu thuật tim mạch.
Chấn thương tim có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:
1. Tai nạn giao thông: Đây là một trong những nguyên nhân chính gây chấn thương tim. Tai nạn xe hơi, xe máy, hoặc các vụ va chạm khác có thể làm tim bị tổn thương do va đập mạnh vào vùng ngực.
2. Tai nạn lao động: Việc làm việc trong môi trường nguy hiểm, sử dụng các công cụ cắt, đâm hoặc va chạm có thể gây chấn thương tim. Đặc biệt, người làm việc trong ngành xây dựng, đóng tàu, làm công nhân luyện kim thường có nguy cơ cao hơn bị chấn thương tim.
3. Nhảy múa từ độ cao: Khi nhảy múa từ độ cao, như nhảy dù hoặc nhảy dù trực thăng, nếu không được thực hiện đúng kỹ thuật hoặc gặp sự cố, người thực hiện có thể hứng chịu lực tác động mạnh lên tim và các cơ quan nội tạng khác.
4. Cấp cứu hồi sức tim mạch: Trong quá trình hồi sức tim mạch, các biện pháp như hồi máu, tách máu hoặc xử lý vết thương có thể gây tổn thương đến tim.
5. Bệnh lý tim mạch: Đôi khi, chấn thương tim có thể là kết quả của các bệnh lý tim mạch, như nhồi máu cơ tim, nhồi máu cục bộ trong mạch máu cung cấp cho tim, hoặc bệnh van tim.
Dấu hiệu và triệu chứng của chấn thương tim phụ thuộc vào mức độ tổn thương. Tùy thuộc vào vị trí và mức độ chấn thương, người bị chấn thương tim có thể gặp khó thở, đau ngực, mất máu, nhịp tim không đều, hoặc nguy kịch.
Việc chẩn đoán chấn thương tim thường được tiến hành bằng cách sử dụng các phương pháp hình ảnh như siêu âm tim, điện tâm đồ, hay cả x-quang ngực.
Điều trị chấn thương tim tùy thuộc vào mức độ tổn thương. Những trường hợp nhẹ có thể được điều trị không mổ qua việc quản lý y tế và tái tạo, trong khi các trường hợp nặng hơn có thể yêu cầu phẫu thuật tim mạch.
Sự biểu hiện ACE2 trong tim người chỉ ra cơ chế tiềm năng mới gây tổn thương tim ở bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 Dịch bởi AI Cardiovascular Research - Tập 116 Số 6 - Trang 1097-1100 - 2020
Tóm tắt
Một loại viêm phổi mới do coronavirus SARS-CoV-2 gây ra đã bùng phát gần đây ở Trung Quốc và lây lan sang nhiều quốc gia khác. Bệnh này, được gọi là COVID-19, có đặc điểm tương tự như ở các bệnh nhân nhiễm SARS-CoV và MERS-CoV, và gần 20% bệnh nhân phát triển tình trạng nặng. Tổn thương tim là một biến chứng phổ biến ở những bệnh nhân nặng, làm trầm trọng thêm mức độ nghiêm trọng của bệnh đối với bệnh nhân COVID-19. Enzyme chuyển đổi angiotensin 2 (ACE2), thụ thể tế bào chủ chính của SARS-CoV-2, đã được xác định ở nhiều cơ quan, nhưng sự phân bố tế bào của nó trong tim người chưa được làm rõ. Nghiên cứu này đã thực hiện bản đồ đơn bào tiên tiến đầu tiên của tim người trưởng thành và tiết lộ rằng các tế bào pericyte với sự biểu hiện cao của ACE2 có thể là mục tiêu của virus SARS-CoV-2. Tổn thương pericyte do nhiễm virus có thể dẫn đến sự rối loạn chức năng của tế bào nội mô mao mạch, gây ra rối loạn chức năng vi mạch. Và các bệnh nhân có tiền sử suy tim cơ bản cho thấy sự biểu hiện ACE2 tăng lên cả về nồng độ mRNA và protein, nghĩa là nếu bị nhiễm virus, những bệnh nhân này có thể có nguy cơ cao hơn về cơn đau tim và tình trạng bệnh nghiêm trọng. Phát hiện của nghiên cứu này giải thích tỷ lệ cao các trường hợp nghiêm trọng trong số các bệnh nhân COVID-19 có bệnh tim mạch cơ bản; và những kết quả này cũng có thể cung cấp tham khảo quan trọng cho việc điều trị lâm sàng tổn thương tim ở những bệnh nhân nặng nhiễm SARS-CoV-2.
Pseudoaneurysm của mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ sau chấn thương ngực và được chẩn đoán bằng cộng hưởng từ tim: một báo cáo trường hợp Dịch bởi AI Journal of Medical Case Reports - - 2012
Tóm tắt
Giới thiệu
Pseudoaneurysm vòng quanh van là một loại giãn mạch hiếm gặp của động mạch chủ trái, chủ yếu được mô tả ở người trẻ tuổi gốc Phi. Những giãn mạch này được chia thành hai loại khác nhau, đó là loại dưới van hai lá hoặc dưới động mạch chủ, trong đó loại dưới động mạch chủ là ít gặp hơn. Loại dưới động mạch chủ thường được định vị ở mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ. Theo kiến thức tốt nhất của chúng tôi, đây là báo cáo đầu tiên về pseudoaneurysm ở mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ liên quan đến hẹp động mạch chủ, hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường, van động mạch chủ hai lá và ống động mạch vẫn thông được chẩn đoán bằng cộng hưởng từ tim mạch.
Trình bày trường hợp
Chúng tôi báo cáo trường hợp của một cậu bé 15 tuổi gốc Phi–Mỹ có tiền sử chấn thương ngực nhẹ, được tiến hành đánh giá siêu âm tim như một phần trong quá trình khám ngoại trú. Kết quả siêu âm tim nghi ngờ sự hiện diện của pseudoaneurysm mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ, do đó cộng hưởng từ tim mạch được thực hiện để làm rõ hơn phát hiện này. Ngoài việc xác nhận sự hiện diện của giãn mạch, cộng hưởng từ tim mạch cũng cho thấy có hẹp động mạch chủ, van động mạch chủ hai lá, và hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường.
#pseudoaneurysm #mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ #chấn thương ngực #cộng hưởng từ tim mạch #dị tật bẩm sinh #hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường
Thời gian trong ngày có ảnh hưởng đến việc chăm sóc bệnh nhân chấn thương nhiều không? Phân tích hồi cứu dữ liệu từ TraumaRegister DGU® Dịch bởi AI BMC Emergency Medicine - Tập 21 Số 1 - 2021
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Việc chăm sóc chấn thương nhiều một cách tối ưu cần phải được duy trì liên tục cả ngày lẫn đêm. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng kết quả điều trị tồi tệ hơn và tỷ lệ tử vong cao hơn ở những bệnh nhân nhập viện vào ban đêm. Nghiên cứu này bao gồm phân tích một nhóm bệnh nhân chấn thương nhiều được nhập viện vào ban đêm và so sánh các chỉ số khác nhau về chất lượng chăm sóc tại những thời điểm nhập viện khác nhau.
Phương pháp
Dữ liệu từ 58.939 bệnh nhân chấn thương nhiều từ năm 2007 đến 2017 được phân tích hồi cứu. Tất cả dữ liệu được lấy từ TraumaRegister DGU®. Bệnh nhân được phân nhóm dựa trên thời gian nhâp viện vào trung tâm chấn thương (6.00 sáng–11.59 sáng (buổi sáng), 12.00 trưa–5.59 chiều (buổi chiều), 6.00 chiều–11.59 tối (buổi tối), 0.00 sáng–5.59 sáng (ban đêm)). Tỷ lệ sự cố, nhân khẩu học bệnh nhân, mẫu chấn thương, cấp độ trung tâm chấn thương và thời gian chăm sóc chấn thương cũng như kết quả được đánh giá.
Kết quả
Số lượng bệnh nhân nhập viện vào ban đêm ít hơn (6.00 chiều–11.59 tối: 18.8% bệnh nhân, 0.00–5.59 sáng: 4.6% bệnh nhân) so với trong ngày. Những bệnh nhân đến trong khoảng thời gian từ 0.00 sáng–5.59 sáng có độ tuổi trẻ hơn (49.4 ± 22.8 tuổi) và có điểm số mức độ nghiêm trọng chấn thương (ISS) cao hơn (21.4 ± 11.5) và điểm Glasgow Coma Scale (GCS) thấp hơn (11.6 ± 4.4) so với những người nhập viện trong ngày (12.00 trưa–05.59 chiều; tuổi: 55.3 ± 21.6 tuổi, ISS: 20.6 ± 11.4, GCS: 12.6 ± 4.0). Thời gian ở phòng cấp cứu chấn thương và thời gian đến phẫu thuật khẩn cấp chỉ khác biệt một cách marginal. Thời gian chụp hình ảnh được kéo dài một chút vào ban đêm (0.00 sáng–5.59 sáng: chụp X-quang 16.2 ± 19.8 phút; chụp CT 24.3 ± 18.1 phút so với 12.00 trưa- 5.59 chiều: chụp X-quang 15.4 ± 19.7 phút; chụp CT 22.5 ± 17.8 phút), nhưng sự chậm trễ này không ảnh hưởng đến kết quả. Kết quả cũng không bị ảnh hưởng bởi cấp độ của trung tâm chấn thương. Không có sự khác biệt đáng kể nào trong điểm số Revised Injury Severity Classification II (RISC II) hoặc tỷ lệ tử vong giữa các bệnh nhân nhập viện trong ngày và ban đêm. Không có sự khác biệt trong điểm số RISC II hoặc tỷ lệ tử vong theo từng khoảng thời gian. Việc nhập viện vào ban đêm không phải là yếu tố dự đoán tỷ lệ tử vong cao hơn.
Kết luận
Đặc điểm bệnh nhân và mức độ nghiêm trọng chấn thương khác nhau giữa ngày và đêm về độ tuổi, mẫu chấn thương và cơ chế chấn thương. Mặc dù có sự khác biệt trong những yếu tố này, việc đến vào ban đêm không có ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả điều trị.
Ứng dụng kỹ thuật BoBs để phát hiện một số hội chứng mất đoạn nhỏ và lệch bội nhiễm sắc thể thai trong chẩn đoán thai nhi có siêu âm bất thường hệ tim mạch Mục tiêu: Đánh giá giá trị kỹ thuật BoBs trong phát hiện một số hội chứng mất đoạn nhỏ và lệch bội nhiễm sắc thể của thai có siêu âm bất thường hệ tim mạch.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 100 mẫu dịch ối của các thai phụ có thai ≥ 16 tuần và thai có hình ảnh siêu âm bất thường hệ tim mạch được xét nghiệm bằng kỹ thuật BoBs và xét nghiệm nhiễm sắc thể (NST).
Kết quả: Phát hiện 28/100 thai có bất thường NST trong đó 8 trường hợp liên quan với vi mất đoạn hoặc nhân đoạn nhỏ NST chỉ được phát hiện bằng kỹ thuật BoBs (5 DiGeorge, 1 Cri-du-chat, 1 Prader Willi/ Anggelman, 1 trisomy 1phần NST 18 (q22.1q22.2) và 20 trường hợp lệch bội NST được phát hiện cả bằng BoBs và xét nghiệm NST thường quy gồm 10 trường hợp Trisomy 21, 9 trisomy 18, 1 trisomy 13. 4/5 thai DiGeorge có tứ chứng Fallot, còn 1 DiGeorge, 1 Prader Willi/Anggelman và 1 nhân đoạn nhỏ NST 18 (q22.1q22.2) có thông liên thất, 1 Cri-duchat có bất thường hệ thống mạch máu.
Kết luận: Với các thai có bất thường hệ tim mạch nên sử dụng đồng thời cả 2 kỹ thuật (karyotype và kỹ thuật BoBs) để tăng tỷ lệ phát hiện các bất thường NST đặc biệt các vi mất đoạn NST hay nhân đoạn nhỏ NST và giúp chẩn đoán nhanh, chính xác và tránh bỏ sót nhiều trường hợp bất thường.
#BoBs #Bacs-on-Beads #mất đoạn nhỏ #nhiễm sắc thể.
Giá trị của cystatin C trong chẩn đoán sớm tổn thương thận cấp sau phẫu thuật timMục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán sớm của cystatin C đối với tổn thương thận cấp (AKI) sau phẫu thuật tim. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả trên 247 bệnh nhân (BN) phẫu thuật tim có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2017. Xác định tỷ lệ mắc và mức độ nặng của AKI sau mổ theo tiêu chuẩn KDIGO. Cystatin C huyết thanh được xét nghiệm vào 3 thời điểm: Khi về ICU (T1), sau 24 giờ (T2) và sau 48 giờ (T3) và so sánh với creatinin huyết thanh. Kết quả: Cystatin C có mối liên quan chặt với creatinin huyết thanh. Tại thời điểm T1, cystatin C có giá trị chẩn đoán AKI tốt hơn (AUC = 0,73, 95% CI: 0,64 - 0,82) so với creatinin (AUC = 0,66, 95% CI: 0,56 - 0,76). Kết luận: Xét nghiệm cystatin C sau mổ thời điểm về ICU có thể giúp chẩn đoán sớm AKI sau phẫu thuật tim.
#Tổn thương thận cấp #phẫu thuật tim #cystatin C
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG LIỆU PHÁP TẬP THỞ Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG NGỰC CÓ DẪN LƯU MÀNG PHỔI TẠI TRUNG TÂM TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC - BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨCĐặt vấn đề: Lý liệu pháp hô hấp (bao gồm liệu pháp tập thở) là một can thiệp điều trị bắt buộc sau phẫu thuật lồng ngực cũng như sau chấn thương ngực có dẫn lưu màng phổi, có ý nghĩa rất quan trọng giúp nhanh chóng đẩy đờm dãi, máu ra khỏi đường hô hấp, chống xẹp phổi, giúp phổi nở sát thành ngực, góp phần đẩy hết máu - khí ra khỏi khoang màng phổi. Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng sự tuân thủ thực hiện liệu pháp với người bệnh sau chấn thương ngực có dẫnl lưu màng phổi trong thời gian gần đây. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang-tiến cứu: kết quả nghiên cứu ghi nhận ở các biến số: tuổi, giới tính, tổn thương kèm theo ,thực trạng tuân thủ thực hiện liệu pháp tập thở… Số liệu được thu thập theo mẫu bệnh án nghiên cứu cho từng bệnh nhân và xử lý bằng chương trình SPSS 20.0. Kết quả: Từ tháng 6/2020 đến 11/2020 có 98 bệnh nhân chấn thương ngực có dẫn lưu màng phổi được lựa chọn vào nhóm nghiên cứu với tỷ lệ thực hiện đúng đủ các bước của liệu pháp tập thổi bóng 76%, tiếp theo liệu pháp thở chúm môi là 46%, liệu pháp tập thở cơ hoành có tỷ lệ 27%. Kết luận: Liệu pháp tập thở là một liệu pháp quan trọng trong chăm sóc bệnh nhân chấn thương ngực có dẫn lưu màng phổi.
#Liệu pháp tập thở #chấn thương ngực #phẫu thuật lồng ngực
Kết quả điều trị vết thương tim - Chấn thương tim tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp - Hải PhòngMục tiêu: tổng kết kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị 46 trường hợp vết thương, chấn thương tim tại bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp Hải Phòng từ năm 2006 – 2015.Phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu.Kết quả: Từ 2006 tới 2015, có 46 bệnh nhân (40 nam) bị vết thương tim và chấn thương tim điều trị tại bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp Hải Phòng, trong đó có38 trường hợp (82,61%) vết thương tim; 8 trường hợp chấn thương tim; độ tuổi bệnh nhân từ 15-80 (tuổi trung bình là 36,22 ± 12,18); 28 trường hợp (60,87%) có hội chứng ép tim cấp; 12 trường hợp (26,08%) có sốc mất máu; 32/38 trường hợp (84,21%) vết thương tim có vết thương ở vùng cảnh giác Peitzman. Thời gian trung bình từ khi bị thương đến khi vào viện là 65,35 ± 35,38 phút; có 29 trường hợp (63,04%) được siêu âm tim trước mổ; tổn thương thất phải hay gặp nhất với 22 trường hợp (47,82%); tỷ lệ tử vong là 15,22% (7 trường hợp)
#chấn thương tim #vết thương tim.
Chẩn đoán trước bất thường nhiễm sắc thể ở thai mắc tim bẩm sinh liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch – nón timMục tiêu: Mô tả bất thường nhiễm sắc thể (NST) liên quan đến bất thường quá trình ngăn thân động mạch – nón tim được chẩn đoán trước sinh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 109 thai được chẩn đoán dị tật tim bẩm sinh (TBS) liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch – nón tim trên siêu âm, được chọc hút dịch ối, sử dụng kỹ thuật BoBs và Karyotype để phân tích NST thai.
Kết quả: Các loại dị tật TBS liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch – nón: Tứ chứng fallot (63/109 - 57,8%), chuyển chỗ mạch máu lớn (18/109 - 16,5%), hẹp động mạch phổi (10/109 – 9,2%), thất phải hai đường ra (5/109 – 4,6%), thân chung động mạch (2/109 – 1,8%) và các loại bất thường khác liên quan đến động mạch chủ, thất trái (11/109 – 10,1%). Tỷ lệ bất thường NST là 33/109 (30,3%), bất thường về số lượng NST là 14/33 trường hợp và bất thường về cấu trúc NST là 19/33 trường hợp (13 trường hợp hội chứng DiGeorge). Nhóm có bất thường phối hợp cơ quan khác ngoài tim có nguy cơ NST bất thường cao hơn 7.3 lần so với nhóm chỉ có biểu hiện bất thường tại tim, OR = 7.3 (2.6; 20.5), p = 0.0002.
Kết luận: Các loại dị tật tim bẩm sinh liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch là các dị tật nặng, thai bất thường NST ở nhóm dị tật này chiếm tỷ lệ cao, trong đó hội chứng DiGeorge chiếm phần lớn.
#Bệnh tim bẩm sinh #hội chứng DiGeorge #thân động mạch nón tim #tứ chứng Falllot
Kết quả điều trị chấn thương tim tại Bệnh viện Hữu nghị Việt ĐứcKhác với vết thương tim, chấn thương tim có thể lâm sàng rất đa dạng. Mục đích của nghiên cứu này là xây dựng qui trình xử trí chấn thương tim dựa vào các thể lâm sàng phù hợp với điều kiện thực hành tại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện với 34 bệnh nhân, có độ tuổi trung bình là 40,5. Nguyên nhân chính của chấn thương tim là tai nạn giao thông (20/34 trường hợp). Các thể lâm sàng theo mức độ chèn ép tim là: tối cấp: 3, cấp: 10, bán cấp: 13, không chèn ép: 8. Có 58,8% có chấn thương ngực, 41,2% có gãy xương ức kèm theo. Tất cả các bệnh nhân thể tối cấp và đa số thể cấp được phẫu thuật với đường mở xương ức rộng rãi và các bệnh nhân đều cho kết quả tốt khi ra viện. Đa phần thể bán cấp (11/13 trường hợp) được dẫn lưu Marfan và thể không chèn ép tim được điều trị bảo tổn ở 4/8 trường hợp. Có hai trường hợp tử vong: 1 do tình trạng nhiễm trùng ở bệnh nhân đa chấn thương nặng, 1 do tổn thương buồng tim quá lớn, dẫn tới tình trạng chảy máu mất kiểm soát sau mổ. Thể lâm sàng dựa trên mức độ cấp tính của chèn ép tim là cơ sở quan trọng để thực hiện phẫu thuật chấn thương tim.
#chấn thương tim #chấn thương ngực #chèn ép tim cấp #tràn máu màng tim #gãy xương ức.
TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃOSuy giảm nhận thức do chấn thương sọ não có thể ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực bao gồm chú ý, ngôn ngữ, trí nhớ, nhận thức tri giác và chức năng điều hành. Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả phục hồi chức năng nhận thức trên người bệnh chấn thương sọ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tiến cứu, so sánh kết quả trước và sau can thiệp trên 33 bệnh nhân bệnh nhân chấn thương sọ não trên 18 tuổi vào điều trị nội trú tại bệnh viện Phục hồi chức năng Hà Nội. Kết quả và kết luận: Bệnh nhân chấn thương sọ não chủ yếu là nam giới chiếm tỷ lệ 78,8%, nữ giới chiếm 21,2%, tỷ lệ nam/nữ là 3.71/1. Độ tuổi và giới tính không ảnh hưởng đến phục hồi chức năng nhận thức của bệnh nhân chấn thương sọ não (p> 0,05). Những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dưới 6 tháng và trên 6 tháng không ảnh hưởng đến PHCN nhận thức của bệnh nhân chấn thương sọ não (p> 0,05).
#Yếu tố liên quan #Phục hồi chức năng nhận thức #Chấn thương sọ não